Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2008

Nói về “chảy máu chất xám”

“Chảy máu chất xám” thường ám chỉ hiện tượng những nhân lực cao cấp rời bỏ đất nước hay cơ quan nhà nước để ra nước ngoài hoặc ra làm việc cho khu vực tư nhân. Hiện tượng này không mới đối với Việt Nam, nhưng gần đây có thêm điều đặc biệt là đã có một số công chức cao cấp (lãnh đạo cơ quan cấp sở, cấp vụ thuộc các thành phố trực thuộc trung ương) đã bỏ ra ngoài làm việc. 

Có quan điểm cho rằng cần phải ngăn cấm hiện tượng đó vì những công chức đó đã được Nhà nước chu cấp kinh phí, điều kiện để được học tập, đào tạo, nên không thể để dùng tiền của Nhà nước để phục vụ cho Tư nhân được. Có một số người khác còn cho rằng phải buộc những công chức đó bồi hoàn mọi chi phí đào tạo do Nhà nước chu cấp trước khi rời khỏi cơ quan nhà nước. Những quan điểm này có vẻ ngoài rất trách nhiệm với Nhà nước. Nhưng nếu xét trên quan niệm “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” thì hoàn toàn không đúng đắn.

Nhà nước bình đẳng với Tư nhân

Trong một xã hội dân chủ, chức năng của Nhà nước (quốc hội, chính phủ, tòa án,…) và các tổ chức, hội đoàn phi nhà nước (tư nhân) đều bình đẳng theo ý nghĩa cùng đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Các cơ quan nhà nước chỉ là các tổ chức được người dân (tư nhân) giao phó cho nhiệm vụ quản lý, điều hành các công việc chung của xã hội với kinh phí hoạt động hoàn toàn do người dân chu cấp (thông qua các loại thuế, phí, đóng góp khác,…). Nhiệm vụ tối cao của Nhà nước chính là phải đảm bảo cho khu vực Tư nhân (mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội) có một môi trường phát triển tốt nhất (đảm bảo an ninh, đảm bảo công bằng, tạo lập các điều kiện tối ưu cho phát triển,…).

Một cách ngắn gọn, toàn bộ dân chúng (Tư nhân theo nghĩa tương phản với Nhà nước) bỏ kinh phí ra lập nên Nhà nước để phục vụ cho mình (xã hội). Như thế, một cá nhân dù làm ở cơ quan nhà nước hay làm ở khu vực tư nhân đều có thể mang lại lợi ích hay gây thiệt hại cho xã hội.

Một viên quản lý nhà hàng tư nhân tốt (tạo ra việc làm ổn định, tuân thủ pháp luật) sẽ có ích cho xã hội hơn là một viên bộ trưởng tham nhũng trong bộ máy nhà nước. 

Nhà nước cũng phải cạnh tranh để có công chức tốt

Nhà nước với tư cách là một cơ quan phục vụ dân, như mọi cơ quan khác cũng phải hoạt động trên nền tảng căn bản là phải có tính hiệu suất (efficiency), nghĩa là phải đạt được mục tiêu đề ra với những đầu tư ít nhất (tiền, thời gian,…). 

Để đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động, Nhà nước (chủ sử dụng lao động) cũng cần phải có những người làm việc cho mình (gọi là công chức). Việc xây dựng đội ngũ công chức của Nhà nước đã phải bao hàm vấn đề tuyển chọn, đào tạo và đảm bảo môi trường để các công chức có thể mang lại hiệu suất cao nhất cho bộ máy Nhà nước. Để có các công chức tốt, Nhà nước cũng phải cạnh tranh với các tổ chức, đoàn thể thuộc khu vực Tư nhân trong việc tuyển dụng (và duy trì) nhân viên có năng lực ở trong xã hội.Với vị trí của người chủ sử dụng lao động, Nhà nước đương nhiên phải tự chịu trách nhiệm để sao cho có đội ngũ công chức hiệu quả nhất với những chi phí đã được người dân cung cấp. Do đó, việc đầu tư kinh phí đào tạo hay cấp phương tiện làm việc cho công chức không thể được coi là sự ban ơn hay ưu đãi, vì những đầu tư đó có nguồn gốc từ mọi người dân (gồm cả những công chức) với kỳ vọng nhận lại được sự phục vụ (làm việc) cho bộ máy Nhà nước. 

Hơn nữa, người quyết định đầu tư (lãnh đạo cơ quan nhà nước) phải là người chịu trách nhiệm trong việc dự đoán và chấp nhận mọi rủi ro cho các quyết định đầu tư xây dựng đội ngũ công chức. Cụ thể, những công chức đứng đầu các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc tạo dựng đội ngũ công chức sao cho hiệu quả nhất trong giới hạn của nguồn lực (ngân sách, thẩm quyền) đã được phân bổ. Nhà nước yếu kém khi không giữ được công chức giỏi. 

Để người lao động gắn bó và mẫn cán với công việc, người sử dụng lao động không chỉ phải đáp ứng những điều kiện tối thiểu như lương, phương tiện làm việc mà còn phải đáp ứng rất nhiều yếu tố khác tùy theo mong muốn riêng của từng người lao động (cơ hội thăng tiến, tính thách thức của công việc, trân trọng ý kiến cấp dưới, sự công bằng, chính trực của môi trường làm việc,…). 

Việc tìm được người đúng khả năng theo đòi hỏi của công việc mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ chính là làm thế nào để bầu nhiệt huyết của người làm việc luôn tràn đầy. Mọi biện pháp có tính cưỡng bách hay ràng buộc có thể giữ được người lao động, nhưng sẽ không thể có được sự nhiệt tình, cảm hứng - cái cốt lõi của hiệu suất làm việc. Do đó, việc có những công chức rời bỏ cơ quan nhà nước chứng tỏ cơ quan nhà nước đã tuyển dụng không đúng người theo yêu cầu công việc hoặc không đáp ứng đủ những điều kiện làm việc cho công chức. Đặc biệt, nếu những người rời bỏ cơ quan nhà nước là những người có thực lực thì đó là dấu hiệu trung thực chứng tỏ cơ quan nhà nước yếu kém về quản lý nhân sự/hoặc không chú trọng vào trách nhiệm phục vụ người dân – những người nuôi sống bộ máy nhà nước.

Chảy máu chất xám” may mắn hơn hơn “chất xám không thể chảy”

Từ “chảy máu chất xám” có tính chất hình ảnh nói lên sự mất mát đối với người sử dụng lao động. 

Tuy nhiên, ở góc độ toàn xã hội, hiện tượng công chức nhà nước rời bỏ những vị trí cao (kèm theo nhiều đặc quyền, bổng lộc) là dấu hiệu tích cực của xã hội. Thứ nhất, điều đó cho thấy tính phụ thuộc của người dân đối với Nhà nước đã giảm đi, điều này cũng đồng nghĩa với việc đã có sự lớn mạnh của khu vực tư nhân (lẽ ra đã phải được lớn mạnh). Thứ hai, “chất xám” của con người đã có thể thoát được sự trói buộc, đày ải của bộ máy nhà nước như đã từng xảy ra trong quá khứ. Thứ ba, với một bộ máy nhà nước nổi tiếng về chuyện mua quan, bán chức, đục khoét ngân sách, tài nguyên, thì hiện tượng “ chảy máu chất xám” trên đây cho thấy đạo đức xã hội vẫn còn hy vọng được phục dựng trở lại.

Cách đây chưa lâu, có một suất biên chế với đồng lương ít ỏi trong cơ quan nhà nước là ước mơ của đại bộ phận người lao động. Những con người có khả năng lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, trong hàng chục năm cuối đời (những năm1960, 1980), đã hết sức cơ cực trong việc mưu sinh khi bị Nhà nước “hắt hủi”. Nếu những “chất xám” của những người như Đặng Thái Sơn, Nguyễn Quang Riệu, Điền Lê (Jonathan Lee), Ngô Bảo Châu (và rất nhiều người khác) không được (bị) “chảy” ra ngoài Việt Nam, liệu nhân loại và Việt Nam có được những Đặng Thái Sơn, Nguyễn Quang Riệu, Điền Lê (Jonathan Lee), Ngô Bảo Châu như hôm nay?

Ở góc độ nhân loại, dù “chất xám” được sử dụng và đóng góp ở đâu, ở quốc gia nào thì cũng là đóng góp cho tiến bộ, cho phát triển chung của nhân loại. Vấn đề đáng nói là tại sao một cơ quan nhà nước hay một quốc gia không giữ được những người tài hoặc không thể làm xuất hiện được những người tài.

Yêu cầu cải tổ Nhà nước

Một Nhà nước không thu hút, không giữ được người tài thì Nhà nước đó không thể làm tốt chức năng phục vụ dân chúng. Nói một cách khác, Nhà nước đó không còn hữu ích cho nhu cầu của dân chúng, Nhà nước đó đang gây thiệt hại cho dân chúng (gồm cả những đảng viên cộng sản). Như vậy, vấn đề cốt yếu cần rút ra từ hiện tượng “chảy máu chất xám” là cần phải cải tổ bộ máy nhà nước để có một bộ máy nhà nước tốt hơn. Tuy nhiên, như mọi hệ thống khác, bộ máy nhà nước không thể tự cải tổ nếu không có sự tác động từ bên ngoài hệ thống. 

Trong khi đó bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn chỉ là sự xếp đặt của Đảng cộng sản Việt Nam (được che đậy dưới hình thức có tên là Bầu cử quốc hội), do đó việc cải tổ bộ máy nhà nước, dù có nhiều đảng viên cộng sản hiện nay thực tâm rất muốn, sẽ không thể có kết quả triệt để khi bộ máy nhà nước chưa thoát được sự khống chế của đảng cộng sản để được là bộ máy do chính người dân tạo lập, nuôi dưỡng và kiểm soát (thông qua các cuộc bầu cử tự do với các ứng cử viên độc lập hoặc từ các đảng chính trị khác nhau). Vì vậy, mọi người dân (cộng sản hay không cộng sản) muốn có một Nhà nước thực sự “của mình, do mình, vì mình”, nhất thiết phải cùng nhau lên tiếng bày tỏ nhu cầu và nỗ lực thúc đẩy để hệ thống chính trị chuyển đổi từ độc đảng thành đa đảng.


Phạm Hồng Sơn

06/2008
Nguồn: báo Tổ Quốc, số 44 (01/07/2008)